Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Quang Trung "yêu" Ngọc Hân ntn

TƯ LIỆU ĐẶC BIỆT: ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN
CỦA VUA QUANG TRUNG VÀ NGỌC HÂN

Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân:

Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện "nguyệt hoa hoa nguyệt" đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện - mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá!

Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn!

Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng!

Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên!

Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương "vô tiền khoáng hậu" này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị.

Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog:


Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hành

Tam Uyển Trần Quang Đức

Bữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn Hành thì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432)

西山行

時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作.
海宇承平二百年,深宮春色鎖嬋娟,嫣紅錦褥人眼獨

淺翠花裀蝶夢纏,不是神仙無對偶,可堪芳景忽流連

紗窗寂寞梅酣雪,邃篽離披柳困煙,花事闌珊春已矣

殘英落絮總堪憐,鼕鼕何處城邊鼓,羯塵漫塞長安路

亟夏方旋振葉風,深春忽點催花雨,鬚眉無膽控危城

釵扇將身抵驕虜,天王姊婦上公妃,不比尋常花巷主

尊榮貴寵對天潢,奠聘奩儀優特數,雲水騶從翠綺羅

風流儐相紛紳冑,扇夫轎子儘非常,都人見者呼為父

人羡新郎如一口,妾見新郎墜雙手,衣裳熳爛語侏离

骨相崚嶒皮皺古,頂上高堆張角巾,腿間不著韓信褲

其中一物望巍然,直與四肢峙為五,靜似高僧兀坐忘

動如弁子歌身舞,不言不笑不溫存,大吼一聲烈如虎

千鈞飛蹲據酥胸,怒裂羅裙披雪股,此物誰知解刺人

頡頏插入溫柔戶,嬌花枝上狂鶯揉,狂鶯不為嬌花護

花膜重重裂繒聲,鉛爐片片飛煙縷,牙咬肉顫汗如油

亂搗胡抽做不住,須臾裙帶落新紅,暗點春籌翻幾度

妾身兩孔似連環,瞬息通成一大圈,捲襦點閱忽驚訝

頏摩不值半文錢,黑暗既非前度白,縈紆又改舊時圓

呼鬟拿甕尿一尿,尿水之聲如飛泉,飛泉瀲灧去不返

陽風打落桃花片,桃花嬌怯不勝風,風斂花魂猶覺倦

盈盈柳骨瘦三分,褶褶湘羅寬一半,底事雖然不殺人

暮雨朝雲安熟爛,自從奇苦得奇歡,歡後卻忘舊苦艱

不患漁翁揮棹澀,溶溶桃浪漲平灘,左掬右摸探花髓

鶯不停梭蹀不攔,玉癢香搔失害羞,上摟下扭圓團團

風情蕩漾花心急,恐放東君頃刻間,蠻人老實多高興

不會輕挑只會鑽,浮世青雲如過客,一生幾度托春眠

衾裯樂處無夷夏,痴徇空名誤玉顔,不見錦機脂粉隊

西兵去後幾人還,誰將此為語姊妹,嫁郎及早嫁西山


Phiên âm

TÂY SƠN HÀNH

Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.

Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên

Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền

Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên

Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên

Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên

Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ

Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ

Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ

Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ

Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số

Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ

Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ

Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ

Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ

Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố

Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ

Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ

Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ

Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ

Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ

Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ

Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ

Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ

Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ

Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên

Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền

Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên

Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền

Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến

Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện

Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán

Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn

Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian

Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than

Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan

Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn

Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian

Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn

Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên

Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan

Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn

Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.


Dịch nghĩa:

TÂY SƠN HÀNH

Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.

Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm

Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt

Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi

Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc

Không phải là thần tiên không có người sánh đôi

Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến

Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết

Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương

Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết

Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương

Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành

Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An

Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá

Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.

Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành

Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh

Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công

Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.

Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc

Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt

Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc

Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.

Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng

Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha'

Ai cũng hâm mộ chú rể

Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.

Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ

Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm

Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác

Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín

Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga

Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn

Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa

Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa

Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn

Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ

Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ

Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết

Vật này ai cũng biết là có thể đâm người

Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm

Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò

Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm

Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải

Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói

Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu

Nện bừa, rút quấy, làm không dừng

Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy

Âm thầm mấy độ xuân qua

Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu

Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn

Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc

Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu

Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia

Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước

Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái

Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn

Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại

Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào

Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió

Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả

Vóc liễu gày đi ba phần

Áo lụa gấp rộng một nửa

Việc này tuy không đến nỗi chết người

Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ

Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng

Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa

Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít

Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng

Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa

Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản

Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng

Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo

Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức

Chỉ sợ rời ‘chúa hoa' trong khoảnh khắc.

Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng

Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt

Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường

Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân

Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ

Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm

Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao

Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?

Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:

Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.

Dưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương:

Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ

Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ

Gấm tươi phô nét hững hờ

Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân

Khách thần tiên chưa lần sánh mộng

Lòng thơ ngây chợt động tơ vương

Song mai tuyết đọng chán chường

Vườn hoa sâu thẳm khói sương liễu bồ

Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết

Xác còn buông mấy nét tơ vương

Thoắt thôi trống động biên cương

Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An

Buổi cuối mùa gió man lay lá

Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa

Mày râu trốn hết đâu mà?

Để cho má phấn phải ra gán mình

Thân công chúa thình lình thiếp giặc

Thân ấy đâu phải bậc tầm thường

Hoàng cung quốc sắc thiên hương

Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi

Xe như nước ngựa phi giăng gấm

Phù rể trông cũng thậm xênh xang

Lạ lùng hầu hạ khiêng sang

Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa

Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý

Nàng Ngọc Hân một vẻ xuôi tay

Người đâu trọ trẹ thế này

Da thời nhăn nhúm, dáng tày ngông nghênh

Khăn với áo xông xênh diêm dúa

Giữa chân không là khố lão Hàn

Bên trong một vật hiên ngang

Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa

Lúc động đậy như là hát múa

Chẳng nói năng sấn sổ xông ra

Cọp gầm hùng hổ chu choa

Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên

Xé toạc váy giở miền ngà ngọc

Vật này ôi đã xọc thân hoa

Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra

Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son

Ôi giày xéo hoa don vật vã

Nhụy non tơ rách xõa còn đâu

Hơi hùm bốc khói trên đầu

Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân

Nện bừa đâm quấy xoay vần

Máu hồng cứ giỏ mấy lần vải voan

Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất

Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh

Thoắt thôi toang hoác thân mình

Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời

Thân vàng ngọc đáng thời một cắc

Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa

Ngực non méo mó dật dờ

Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn

Thác đã tuôn cũng khôn níu lại

Cánh hoa đào gió tãi nào vun

E rằng gió giật chăng dừng

Hồn hoa mệt rã vô chừng bấy hoa

Thân liễu yếu ngót ba phần đủ

Xiêm y thay khéo chửa vừa thân

Mây mưa đã giãi phong trần

Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan

Càng đau lạ lại càng sướng lạ

Sướng này thôi cũng hả đau kia

Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa

Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa

Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ

Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu

Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu

Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng

Cuộc phong tình bướm hoa háo hức

Chẳng nỡ rời một lúc một giây

Vũ phu hứng động dâng đầy

Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân

Cảnh mây nổi một thân làm khách

Khách qua đường chớ trách mộng xuân

Gối chăn đâu cũng xoay vần

Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ

Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ

Gã Tây Sơn liệu có quay về

Việc này nói tỏ cho nghe :

Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !

[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.


Nguồn: Nguyễn Xuân Diện Blog

Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án - tác giả của bài Tây Sơn hành:

Trần Danh Án (1755 - 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định - nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.

Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.

Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.



Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét